Kiến Tường: Những vấn đề cần nắm vững trong xác định đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập và thực hiện kiểm soát tài sản thu, thu nhập
Kê khai tài sản, thu nhập là một trong những biện pháp phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả nếu được triển khai thực hiện nghiêm túc. Luật Phòng, chống tham nhũng số 36/2018/QH14 đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019 (sau đây viết tắt là Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018) nhưng đến hiện tại việc xác định đối tượng có nghĩa vụ phải kê khai cũng như thực hiện kê khai tài sản, thu nhập ở một vài cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn có phần lúng túng.
Theo quy định tại Điều 34 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì tất cả cán bộ, công chức, sĩ quan Công an nhân dân, sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp; người giữ chức vụ từ Phó Trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp đều có nghĩa vụ phải kê khai tài sản lần đầu. Việc kê khai tài sản lần đầu là cơ sở để bắt đầu quy trình kiểm soát tài sản, thu nhập của người phải kê khai tài sản trong quá trình công tác của họ. Sau khi kê khai lần đầu thì Luật đã phân nhóm, phân luồng và áp dụng phương thức phù hợp với từng đối tượng cần kiểm soát. Theo đó, những người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên và những người làm công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác (theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020) phải có nghĩa vụ kê khai tài sản hằng năm. Đây là nhóm đối tượng giữ chức vụ hoặc đảm nhiệm những vị trí việc làm có nguy cơ phát sinh hành vi tham nhũng ở mức độ cao nên phải kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên hằng năm. Đối với những cán bộ, công chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp còn gọi là nhóm đối tượng giữ các chức vụ (từ phó giám đốc sở và tương đương trở xuống) và giữ những vị trí việc làm có nguy cơ tham nhũng thấp thì không cần thiết phải kê khai tài sản hằng năm mà chỉ có nghĩa vụ thực hiện kê khai bổ sung khi có biến động về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị từ 300.000.000 đồng trở lên.
Ngoài việc kê khai hằng năm, kê khai khi có biến động về biến động tài sản, thu nhập, Luật còn quy định việc kê khai tài sản phục vụ công tác cán bộ khi cán bộ, công chức,…dự kiến được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại hoặc được cử các chức vụ khác.
Việc tiếp nhận, quản lý, bàn giao bản kê khai tài sản, thu nhập được Luật quy định tại Điều 38, Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng người có nghĩa vụ kê khai có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý bản kê khai; Trường hợp bản kê khai không đúng theo mẫu hoặc không đầy đủ về nội dung thì cơ quan, tổ chức, đơn vị yêu cầu kê khai bổ sung hoặc kê khai lại; Thời hạn kê khai bổ sung hoặc kê khai lại là 07 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp có lý do chính đáng; Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được bản kê khai, cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng người có nghĩa vụ kê khai rà soát, kiểm tra bản kê khai và bàn giao 01 bản kê khai cho Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập có thẩm quyền.

Kiểm soát tài sản, thu nhập là hoạt động do Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập (trong đó có Ủy ban Kiểm tra từ cấp huyện, thị trở lên) thực hiện theo quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước để biết rõ tài sản, thu nhập, biến động về tài sản, thu nhập, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm của người có nghĩa vụ kê khai nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi tham nhũng, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Xác định vai trò quan trọng của công tác kiểm soát tài sản, thu nhập. Căn cứ Quy chế phối hợp giữa các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập (Quyết định số 56-QĐ/TW, ngày 08/02/2022 của Bộ Chính trị); hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về thực hiện một số điều của Quy chế phối hợp giữa các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập (Hướng dẫn số 03-HD/UBKTTW, ngày 03/11/2022); Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của Chính phủ về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và sự chỉ đạo; hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy. Ủy ban Kiểm tra Thị ủy xây dựng kế hoạch kiểm soát tài sản, thu nhập ngay từ đầu năm và tổ thực hiện kiểm soát tài sản, thu nhập theo quy định tại Điều 43 đến 50 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
Qua thực hiện tiếp nhận bản kê khai tài sản, thu nhập của đối tượng thuộc diện Ban Thường vụ Thị ủy quản lý và cán bộ, công chức có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập công tác trong các cơ quan Đảng của Thị ủy. Ủy ban Kiểm tra Thị ủy nhận thấy: việc kê khai, tổ chức kê khai, tiếp nhận quản lý, nộp, công khai bản kê khai tài sản, thu nhập được các cơ quan, đơn vị và người có nghĩa vụ kê khai thực hiện cơ bản đảm bảo quy định. Các cơ quan, đơn vị có tiến hành rà soát, lập danh sách những người có nghĩa vụ kê khai, tổ chức kê khai theo trình tự, thủ tục quy định. Nhận thức, ý thức trách nhiệm của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức của các cơ quan, đơn vị từng bước được nâng lên; vai trò người đứng đầu thể hiện rõ nét, nhất là gương mẫu trong thực hiện việc kê khai tài sản và trách nhiệm trong chỉ đạo thực hiện kê khai, công khai tài sản, thu nhập tại cơ quan, đơn vị.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một vài cơ quan, đơn vị vẫn còn hạn chế như: công tác quán triệt các quy định của Đảng, Nhà nước về kê khai tài sản, thu nhập chưa sâu kỹ; cán bộ được phân công tiếp nhận bản kê khai chưa kiểm tra tính đầy đủ các nội dung phải kê khai; vẫn còn đơn vị không ký, ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm nhận bản kê khai; người có nghĩa vụ kê khai chưa nghiên cứu kỹ hướng dẫn về kê khai tài sản, thu nhập; kê khai không đầy đủ các tài sản phải kê khai thuộc thẩm quyền sở hữu, quyền sử dụng của người kê khai, của vợ hoặc chồng theo quy định của pháp luật; kê khai không đầy đủ các thông tin mô tả về tài sản.
Việc thực hiện kiểm soát tài sản, thu nhập đang gặp phải một số khó khăn, vướng mắc có phần do quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 và Nghị định số 130-NĐ/CP chưa cụ thể như: phần kê khai lần đầu không yêu cầu giải trình nguồn gốc hình thành tài sản dẫn đến khó xác minh ra những điểm bất hợp lý, làm cơ sở cho phát hiện và xử lý hành vi vi phạm; không quy định rõ tổng thu nhập phải kê khai là thu nhập trước hay sau khi trừ đi các khoản chi tiêu của người kê khai, dẫn đến những cách hiểu khác nhau; chưa có chế tài xử lý đối với những cơ quan, tổ chức không hoặc trì hoãn kéo dài thời gian trong phối hợp, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai theo quy định của pháp luật.
Để góp phần giúp cho công tác kiểm soát tài sản, thu nhập đạt chất lượng, hiệu lực, hiệu quả góp phần tích cực trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian tới, Ủy ban Kiểm tra Thị ủy nhận thấy cấp ủy, cơ quan, đơn vị trên địa bàn thị xã cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Một là, cấp ủy, cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu cần tổ chức thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Đảng và Nhà nước về kê khai, công khai tài sản, thu nhập. Trong đó, cần xác định đúng đối tượng kê khai lần đầu, hằng năm và nêu cao tính trung thực, tự giác trong kê khai tài sản, thu nhập tăng thêm.
Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong tham gia ý kiến, giám sát cán bộ, đảng viên thực hiện nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập.
Ba là, tăng cường và đổi mới phương pháp tuyên truyền, triển khai các quy định, hướng dẫn của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kê khai, kiểm soát tài sản nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tổ chức đảng, đảng viên, nhất là vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị.
Hoài Thương